Tất cả chuyên mục

Thực hiện lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ sau ngày Vùng mỏ hoàn toàn giải phóng (25/4/1955), cán bộ, công nhân ngành than đã nêu cao ý chí kiên cường, thi đua khôi phục sản xuất, chiến đấu bảo vệ Vùng mỏ trước sự tàn phá của kẻ thù, chi viện cho miền Nam, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 và xây dựng đất nước đi lên.
Sau ngày giải phóng, chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhiều công trình trước khi Pháp rút đi, chúng đã đánh hỏng và mang theo các tài liệu nhằm mục đích để chúng ta sau khi tiếp quản sẽ bị đình trệ sản xuất kéo dài. Thế nhưng hưởng ứng lời kêu gọi của Bác: “Anh chị em công nhân mỏ phải bảo vệ hầm mỏ, máy móc, nhà máy, kho tàng và nâng cao năng suất”, công nhân mỏ trong tâm thế người làm chủ đã tự tin và quyết tâm khắc phục khó khăn, từng bước khôi
Trong điều kiện "Đất nước cần than!", việc khôi phục sản xuất than đã trở thành nhiệm vụ chính trị thiêng liêng, cấp thiết. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957), Xí nghiệp quốc doanh than Hòn Gai đã dấy lên phong trào thi đua mới. Những cán bộ, công nhân giàu lòng yêu nước từng làm việc cho SFCT kết hợp với cán bộ quân giới ở kháng chiến về hồ hởi hưởng ứng phong trào thi đua, tận tình ngày đêm phục hồi lại sản xuất. Tại vùng Cẩm Phả, việc khôi phục hệ thống đường trục vận chuyển than và hệ thống thiết bị sàng tuyển bốc rót than; khôi phục hệ thống điện ở Cửa Ông, Nhà máy Than luyện, ... đã được công nhân mỏ tập trung, nỗ lực hưởng ứng để thực hiện cho bằng được. Nhờ vậy, vượt xa so với suy nghĩ của các kĩ sư Pháp, trong giai đoạn này, cán bộ, công nhân mỏ đã nhanh chóng khôi phục được lại sản xuất than, kịp thời cung cấp than cho đất nước. Ngày 19/8/1955, kỷ niệm 10 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, tàu than đầu tiên đã về đến Hà Nội báo công với Bác Hồ.
Từ các phong trào thi đua, đã xuất hiện những gương công nhân tiêu biểu như: Anh hùng lao động đầu tiên của Vùng mỏ - Lê Văn Hiển, Huỳnh Văn Nguôn, Vũ Hữu Luyện, Trương Hữu My, Trần Sinh Xướng…
Tại Mỏ than Mạo Khê, anh chị em quân giới đã phát động thi đua khôi phục lại hệ thống lò đã bị phá hủy. Lò chợ Sa lê không có quạt gió đã nghĩ ra cách đan phên nứa dựng dàn giáo làm buồm tại cửa lò, hứng gió đông nam thổi vào lò thay quạt điện. Đây cũng là đường lò đầu tiên của Mạo Khê được khôi phục sau giải phóng.
Từ năm 1955, các thiết bị hiện đại như máy xúc, máy khoan, ô tô được trang bị ngày càng nhiều trong khi trình độ văn hóa của cán bộ công nhân ta còn thấp, rất khó khăn trong việc tiếp thu kỹ thuật mới, lãnh đạo khu mỏ đã phát động phong trào thi đua học bổ túc văn hóa rộng khắp: học nhiều ca, học ban đêm, học tại công trường, học tại xí nghiệp. Người có văn hóa cao dạy cho người văn hóa thấp. Lúc vào ca là bạn sản xuất, hết ca là thầy trò. Phong trào đã lôi kéo mọi lứa tuổi, mọi giới và lấy việc học bổ túc văn hóa làm một tiêu chuẩn để bình chọn các danh hiệu thi đua.
Ở mỏ Quán Triều xuất hiện phong trào thi đua "Đất mỏ nở hoa" với nội dung "tăng động tác nhanh, giảm động tác thừa" theo gương phong cánh lao động của Đặng Thị Nhàn. Những cá nhân và tập thế nào sản xuất đạt định mức được gắn hoa xanh, vượt mức được gắn hoa hồng. Phong trào này đã kích thích mọi người quyết tâm "Giành hoa đỏ, bỏ hoa xanh, thành kiện tướng".
Với rất nhiều nỗ lực và quyết tâm, những thắng lợi kỳ diệu trong sản xuất than đã được hiện thực hoá trong từng năm, sản lượng than tăng vọt. Năm 1956, sản lượng khai thác than của Vùng mỏ đã lên tới 1.233.320 tấn (ngang bằng với sản lượng cao nhất thời thịnh vượng của chủ mỏ Pháp) và đến hết năm 1958 với khí thế hăng hái của công nhân mỏ, sản lượng than đã đánh dấu mốc lịch sử đạt 1.633.000 tấn. Những kết quả ấy là nhờ sự nỗ lực của công nhân mỏ mà tiêu biểu là 2601 cá nhân tiên tiến, 108 tổ tiên tiến trong các đợt thi đua 3 năm 1955-1957. Ngành Than cũng đã chọn được chiến sỹ thi đua, đó là chiến sĩ thi đua Đặng Thị Nhàn được tuyên dương và phát động phong trào toàn ngành học tập.
Ở vùng than Cẩm Phả, tại công trường Cọc Sáu, phong trào thi đua đã lan toả tới từng người, từng tổ đội; tất cả đều nỗ lực vượt mức từng chuyến xe goòng chở than trong một ca. Định mức 60 chuyến đã nâng lên 65,75, cao nhất là 120 chuyến/ca. Từ Cọc Sáu, phong trào thi đua đã lan rộng sang các công trường Đèo Nai, Hà Tu. Tiêu biểu trong đợt thi đua này đã xuất hiện nhiều kiện tướng như: Lại Thị Gái, Vũ Thị Bé, Hà Quang Hợp, Hà Thị Bợp, Hoàng Văn Mỹ, Nguyễn Văn Bìa...
Tháng 7/1958, tại Đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua lần thứ hai họp tại Hà Nội, mỏ than Cẩm Phả đã được tuyên dương hai Anh hùng Lao động là Hồ Xây Dậu và Lê Văn Hiển.
Từ sau năm 1958, bước vào thực hiện các kế hoạch phát triển ngành than, với nhiệm vụ mới nặng nề hơn, ngành Than đã có những phong trào thi đua với nội dung mới cao hơn giai đoạn trước, phù hợp với tình hình thực tế. Đó là 4 cuộc vận động lớn về: Xây dựng chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật; Phân tích hoạt động kinh tế kỹ thuật với hạch toán tổ, đội, phân xưởng; 3 xây 3 chống và phong trào thi đua 3 điểm cao.
Trong giai đoạn chống Mỹ, nhiều chiến dịch tiêu biểu đã được lan toả. Tháng 3/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuống khu mỏ yêu cầu làm thêm 20 vạn tấn than sạch và phát động chiến dịch sản xuất "than Điện Biên Phủ" nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 1964). Đây là một chiến dịch thi đua có quy mô rộng khắp. Năm 1966, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ tại Hội nghị Chính trị đặc biệt, ngành Than đã phát động phong trào thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai". Toàn thể CBCN đều tình nguyện làm thêm giờ, nhận thêm việc, khẩu hiệu của phong trào là "Tất cả chi viện cho miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà".
Từ năm 1966 đến năm 1975, ngành Than bước vào giai đoạn vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của không lực Mỹ. Toàn ngành đã phát động phong trào sản xuất và chiến đấu trong mọi tình huống, lấy khẩu hiệu "Chắc tay búa, vững tay súng", "Ba sẵn sàng", Ba đảm đang". Mỏ Mạo Khê, mỏ Vàng Danh phát động phong trào "Đào lò nhanh".
Sau ngày 15/11/1968, Bác Hồ gặp đoàn đại biểu CNCB ngành Than tại Phủ Chủ tịch, ngành than cũng dấy lên một đợt sinh hoạt chính trị vừa kiểm điểm sâu sắc những khuyết điểm, vừa đề ra những biện pháp để sản xuất được nhiều than và đưa quản lý trở lại nề nếp.
Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, cán bộ công nhân ngành than vừa chiến đấu kiên cường, vừa giữ vững sản xuất và chi viện cho chiến trường miền Nam. Ông Mai Hữu Phần, cựu công nhân Công trường Than Đèo Nai tự hào kể lại: Giai đoạn năm 1972, lực lượng tự vệ của mỏ Đèo Nai đã anh dũng chiến đấu và bắn rơi được 1 máy bay Mỹ, góp phần vào thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của Vùng mỏ trên bầu trời miền Bắc. “Đồi cao, đá rắn có thể làm mòn sắt thép, nhưng không thể làm mòn ý chí quyết thắng của Thợ mỏ Đèo Nai. Mỗi tấn than làm ra không chỉ thấm đẫm mồ hôi mà còn có cả máu và nước mắt của những người thợ mỏ” - người công nhân mỏ nhấn mạnh đầy quả quyết.
Trong những năm từ giai đoạn đổi mới đến nay, ngành Than đã có những nỗ lực vượt bậc để phát triển đi lên cũng nhờ những phong trào thi đua sôi nổi được phát động toàn ngành cho đến từng đơn vị. Nhiều hình thức vận động phong trào đã được thay thế cho phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của từng đơn vị. Các danh hiệu "Lao động giỏi", "Quản lý giỏi", "Kinh doanh giỏi"… được phong tặng. Đặc biệt là danh hiệu "Thợ mỏ vẻ vang", kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp phát triển Công nghiệp Việt Nam" là danh hiệu vinh dự của cán bộ, công nhân ngành Than đã được ngành ghi nhận.
Những phong trào thi đua, những tấm gương "Người thợ mỏ - Người chiến sĩ" của ngành Than đã thực sự tạo ra khí thế, động lực thi đua sôi nổi, cổ vũ cán bộ, công nhân ngành than nỗ lực, đoàn kết, thực hiện lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác Hồ, cống hiến xây dựng ngành than, tỉnh Quảng Ninh và đất nước ngày một phát triển.
Ý kiến ()